THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN

Dự án Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ

Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Chính phủ trình Quốc hội dự án Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT

1. Cơ sở chính trị, pháp lý

- Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04/9/2012 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông đề ra yêu cầu: Tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hệ thống pháp luật về trật tự, an toàn giao thông phù hợp với tình hình mới.

- Kết luận số 45-KL/TW ngày 01/02/2019 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04/9/2012 trong đó xác định: Công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là một nội dung của công tác bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Việc phân công quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông thực hiện theo đúng Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII: "Một cơ quan thực hiện nhiều việc và một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính"; khắc phục những hạn chế, bất cập hiện nay.

- Nghị quyết số 07/NQ-CP ngày 17/02/2020 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 05/9/2019 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó Chính phủ giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan xây dựng Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, ban hành trong năm 2020.

- Nghị quyết số 70/NQ-CP ngày 14/5/2020 của Chính phủ về phiên họp thường kỳ tháng 4 năm 2020, trong đó Chính phủ thống nhất về sự cần thiết xây dựng, ban hành Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ và giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ xác định rõ hơn những vấn đề cụ thể thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, hoàn thiện Hồ sơ dự án Luật, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trước khi trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, bổ sung dự án Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020 để Quốc hội khóa XIV cho ý kiến tại kỳ họp thứ 10, thông qua tại kỳ họp thứ 11.

- Nghị quyết số 123/NQ-CP ngày 31/8/2020 của Chính phủ về phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 8 năm 2020, trong đó Chính phủ thống nhất nội dung cơ bản của Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ được xây dựng trên cơ sở đổi mới, hoàn thiện các chính sách, nội dung quy định về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ tách ra từ Luật Giao thông đường bộ hiện hành, nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và công tác tổ chức thực thi pháp luật, tạo bước chuyển biến cơ bản, bền vững trong việc bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra. Giao Bộ Công an tiếp thu ý kiến các Thành viên Chính phủ, khẩn trương chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trình Quốc hội khóa XIV tại kỳ họp thứ 10.

- Điều 19 Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người có quyền sống; tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Điều 20 quy định: Mọi người được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ. Luật Công an nhân dân năm 2018 quy định: Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý về trật tự, an toàn giao thông.

 Như vậy, các nội dung nêu trên là chủ trương vững chắc, là yêu cầu cấp thiết làm cơ sở chính trị, pháp lý cho việc ban hành Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đáp ứng yêu cầu công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông trong tình hình mới.

2. Cơ sở thực tiễn

Thứ nhất, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đồng thời điều chỉnh hai lĩnh vực khác nhau là: Trật tự, an toàn giao thông đường bộ (thuộc lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội) chủ yếu điều chỉnh mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước và các cá nhân để bảo đảm trạng thái giao thông có trật tự, an toàn, đúng pháp luật; xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, vận tải đường bộ (thuộc lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật), chủ yếu điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức, cá nhân khi thiết kế, quy hoạch, xây dựng và chuyển giao các công trình hạ tầng giao thông, kinh doanh vận tải, dịch vụ hỗ trợ vận tải. Đây là hai lĩnh vực rất lớn và khác nhau nhưng lại được điều chỉnh trong cùng một đạo luật dẫn đến không thể quy định đầy đủ, cụ thể, rõ ràng nhiều nội dung quan trọng thuộc cả hai lĩnh vực.

Bên cạnh đó, toàn bộ hoạt động bảo đảm bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ liên quan, tác động đến quyền con người, quyền công dân mà theo tinh thần của Hiếp pháp thì những nội dung này phải được quy định trong văn bản luật. Trong đó, một số hoạt động đã được điều chỉnh trong Luật Giao thông đường bộ năm 2008 như quy tắc giao thông, người và phương tiện tham gia giao thông, nhưng vẫn còn nhiều quy định thiếu cụ thể, chưa sát với thực tiễn, thể hiện ở những vấn đề cơ bản sau:

(1) Quy tắc giao thông chủ yếu là nội luật hóa Công ước Viên năm 1968 về Giao thông đường bộ nhưng việc cụ thể hóa các quy định của Công ước này trong Luật Giao thông đường bộ năm 2008 chưa đầy đủ và chưa sát thực tiễn tình hình giao thông tại Việt Nam, như: quy định về sử dụng làn đường, dừng, đỗ xe trên đường phố, chuyển hướng, vượt xe, nhường đường tại nơi đường giao nhau, sử dụng đèn tín hiệu…dẫn đến khó khăn trong nhận thức và thực thi pháp luật.

 (2) Thực tiễn triển khai thực hiện việc cấp, quản lý giấy phép lái xe còn sơ hở, bất cập. Việc quản lý giấy phép lái xe chưa gắn với quản lý vi phạm của người tham gia giao thông. Trong nhiều vụ tai nạn giao thông, trách nhiệm chủ yếu thuộc về người lái xe gây tai nạn mà chưa gắn trách nhiệm của các cơ quan đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe.

 (3) Chưa quy định cụ thể và đầy đủ về các biện pháp tổ chức an toàn giao thông, chỉ huy, điều khiển giao thông, giải quyết ùn tắc giao thông; lực lượng Công an hàng ngày làm nhiệm vụ chủ yếu giải quyết các tình huống ùn tắc giao thông thực tế, nhưng nguyên nhân do tổ chức giao thông bất hợp lý thì không có cơ chế cụ thể để cơ quan Công an kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền tiếp thu, khắc phục các bất hợp lý kịp thời. Thông qua các công tác nghiệp vụ bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, lực lượng Cảnh sát giao thông đã chủ động phát hiện nhiều bất hợp lý trong tổ chức giao thông và có văn bản kiến nghị với ngành giao thông để sửa chữa, khắc phục nhưng tỷ lệ khắc phục còn rất hạn chế (từ cuối năm 2018 đến nay, Công an các địa phương đã có 2.940 kiến nghị gửi ngành Giao thông vận tải, số kiến nghị được khắc phục là 308 (chiếm 10,47%), số kiến nghị chưa được khắc phục là 2.632 (chiếm 89,53%), trong đó có 55 kiến nghị chưa được khắc phục là các "điểm đen" tai nạn giao thông).

(4) Chưa quy định cụ thể, đầy đủ, rõ ràng về biện pháp, trách nhiệm giải quyết tai nạn giao thông đường bộ của cơ quan Công an, Y tế, Bảo hiểm, cơ quan khai thác, bảo trì đường bộ, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Trong quá trình giải quyết tai nạn giao thông, một số quy định trách nhiệm của cơ quan Y tế, cơ quan, doanh nghiệp bảo hiểm, cơ quan, đơn vị bảo trì, khai thác đường bộ, đăng kiểm… được quy định trong các thông tư, vì vậy tính pháp lý chưa cao, chưa bảo đảm tính tập trung, thống nhất.

(5) Chưa có chính sách cụ thể, rõ ràng về quản lý, sử dụng hệ thống giám sát, xử lý vi phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, trung tâm chỉ huy, điều khiển giao thông và chưa xác định cơ quan chịu trách nhiệm chính trong công tác này, dẫn đến đầu tư ứng dụng công nghệ thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

 (6) Việc xác định cơ quan chịu trách nhiệm chính về trật tự, an toàn giao thông đường bộ chưa rõ ràng, rành mạch dẫn đến chồng chéo khi tổ chức thực hiện.

 Thứ hai, trong lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông nói chung thì lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ đang tồn tại, nảy sinh nhiều vấn đề bất cập đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này, nhất là kỹ năng điều khiển phương tiện, ý thức chấp hành pháp luật về trật tự, an toàn giao thông của nhiều người tham gia giao thông còn rất kém; tình trạng coi thường pháp luật, vi phạm trật tự, an toàn giao thông, tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông diễn biến hết sức phức tạp.

Theo thống kê của Bộ Công an, từ năm 2009 đến nay: Tai nạn giao thông ở Việt Nam đã xảy ra 334.901 vụ, làm chết 101.810 người (trung bình hàng năm gần 10.000 người chết, chủ yếu trong độ tuổi lao động), bị thương 336.094 người, chiếm hơn 95% trong tổng số vụ, số người chết, số người bị thương do tai nạn giao thông nói chung, gây thiệt hại rất lớn về tài sản; đáng chú ý nguyên nhân gây tai nạn giao thông đường bộ do lỗi vi phạm của người tham gia giao thông là chủ yếu chiếm trên 90% số vụ. So với thế giới, tai nạn giao thông Việt Nam đang ở mức cao.

Ùn tắc giao thông xảy ra phức tạp tại các thành phố lớn do lưu lượng phương tiện tăng đột biến, trong khi quy hoạch giao thông, tổ chức giao thông, hạ tầng giao thông chưa đáp ứng yêu cầu, gây tắc nghẽn trên diện rộng tại các đô thị lớn và trên các tuyến cao tốc, quốc lộ trọng điểm. Ùn tắc giao thông trên các trục giao thông chính, đầu mối giao thông trọng điểm, đặc biệt là trên địa bàn Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh ngày càng trở nên phức tạp, thường xuyên, liên tục, có xu hướng lan rộng cả không gian và thời gian; ô nhiễm môi trường từ hoạt động của phương tiện giao thông ngày càng nghiêm trọng, gây ra những thiệt hại không nhỏ về kinh tế, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và đời sống của Nhân dân, tác động không tốt đến môi trường du lịch, thu hút đầu tư nước ngoài và hình ảnh của Việt Nam đối với bạn bè quốc tế.

Đã phát hiện, xử lý 58.800.929 trường hợp vi phạm; vi phạm vẫn có tính phổ biến, nhiều hành vi nguy hiểm như đi ngược chiều, lùi xe trên đường cao tốc, vượt đèn đỏ, đua xe trái phép, sử dụng ma túy, rượu, bia khi điều khiển phương tiện, chạy quá tốc độ, vượt ẩu, đi sai làn đường, không chấp hành yêu cầu kiểm tra, kiểm soát, chống người thi hành công vụ… Trong đó, một trong những nguyên nhân thuộc về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước.

Các loại tội phạm hoạt động trên các tuyến giao thông diễn biến hết sức phức tạp, nhất là các hành vi gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ, cố ý gây thương tích, cướp, cướp giật tài sản, vận chuyển trái phép chất ma túy, hàng giả, hàng lậu…, đã phát hiện, xử lý 29.417 vụ phạm pháp hình sự trên tuyến giao thông. Dự báo trong thời gian tới, khủng bố, biểu tình trái pháp luật, lợi dụng hoạt động giao thông để gây rối an ninh, trật tự và phạm tội có nguy cơ thường trực trên các tuyến giao thông đường bộ.

Thứ ba, xu hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam hiện nay theo hướng chuyên sâu hóa điều chỉnh một lĩnh vực cụ thể để bảo đảm sự phân công rõ ràng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và nâng cao trách nhiệm trong công tác quản lý nhà nước của các bộ, ngành, địa phương và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật. Theo đó, Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ có mục tiêu lớn nhất là bảo vệ quyền con người, bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe cho người tham gia giao thông; còn Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi) có mục tiêu lớn nhất là đầu tư, xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, quản lý vận tải đường bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ tư, trong quá trình xây dựng Luật, Bộ Công an đã nghiên cứu, tham khảo pháp luật của nhiều nước trên thế giới, qua đó cho thấy các nước đều có luật chuyên biệt về trật tự, an toàn giao thông, tách bạch với quy định về xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông và vận tải đường bộ (như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Nga, Đức, Ô-xtrây-lia...).

Từ những lý do nêu trên cho thấy, việc xây dựng, ban hành Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ là cần rất thiết.

II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT

1. Mục đích

Việc xây dựng Luật nhằm tạo ra bước chuyển biến cơ bản, bền vững trong việc bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe cho người tham gia giao thông, góp phần bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; giảm ùn tắc giao thông gắn với bảo vệ môi trường; xây dựng văn hóa giao thông văn minh tiệm cận dần đến văn minh giao thông của các quốc gia tiên tiến trên thế giới.

2. Quan điểm chỉ đạo

- Bảo đảm sự phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật; tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên; tham khảo có chọn lọc pháp luật về giao thông đường bộ của một số nước trên thế giới.

- Thực hiện xu thế chuyên sâu hóa trong xây dựng pháp luật hiện nay để bảo đảm thực hiện đầy đủ và hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành.

- Bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật trên tuyến giao thông.

- Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả công tác, tăng cường tính công khai, minh bạch; cải cách thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho Nhân dân.

III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT

- Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về xây dựng dự án Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, Bộ Công an đã thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập xây dựng dự án Luật. Các thành viên của Ban soạn thảo, Tổ biên tập gồm đại diện các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan.

- Dự án Luật đã được gửi lấy ý kiến của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Công an các đơn vị, địa phương và gửi lấy ý kiến của các thành viên Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật. Hồ sơ dự án Luật được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Cổng thông tin điện tử của Bộ Công an để lấy ý kiến rộng rãi của các tổ chức, cá nhân theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Các ý kiến tham gia đã được Bộ Công an tổng hợp, nghiên cứu tiếp thu và giải trình. Đồng thời, hồ sơ dự án Luật đã được Bộ Tư pháp thẩm định và Chính phủ cho ý kiến theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.

- Do đây là một dự án Luật được tách ra từ Luật Giao thông đường bộ năm 2008, song song với dự án Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi) do Bộ Giao thông vận tải chủ trì soạn thảo nên quá trình xây dựng, Bộ Công an đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các bộ, ngành có liên quan; đã tiến hành làm việc ở nhiều cấp (Bộ trưởng, Thứ trưởng, cơ quan tham mưu) để thống nhất phạm vi điều chỉnh của 02 dự án Luật, bảo đảm không trùng chéo, trùng lắp, trên cơ sở đó báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Chính phủ đã có nhiều cuộc họp (họp thường kỳ, họp chuyên đề…) với sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ để cho ý kiến về 02 dự án Luật trước khi báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Trước khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 123/NQ-CP ngày 31/8/2020 về phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 8 năm 2020, dự án Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ gồm 07 chính sách là: (1) Hệ thống báo hiệu đường bộ; (2) Quy tắc giao thông đường bộ; (3) Phương tiện và người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ; (4) Tổ chức giao thông, chỉ huy, điều khiển giao thông và giải quyết ùn tắc giao thông đường bộ; (5) Giải quyết tai nạn giao thông đường bộ; (6) Thực thi pháp luật trong phát hiện, xử lý vi phạm; (7) Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 123/NQ-CP ngày 31/8/2020 về phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 8 năm 2020, thực hiện nghiêm Nghị quyết của Chính phủ, Bộ Công an đã phối hợp với Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ chỉnh lý, hoàn thiện, theo đó dự án Luật còn 06 chính sách là: (1) Quy tắc giao thông đường bộ; (2) Phương tiện và người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ; (3) Tổ chức an toàn giao thông, chỉ huy, điều khiển giao thông và giải quyết ùn tắc giao thông đường bộ; (4) Giải quyết tai nạn giao thông đường bộ; (5) Thực thi pháp luật trong phát hiện, xử lý vi phạm; (6) Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Trong các chính sách cũng có sự điều chỉnh về nội dung để bảo đảm không trùng chéo với nội dung cụ thể trong các chính sách của dự án Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi) và các Luật, dự án Luật khác có liên quan (như Luật xử lý vi phạm hành chính). Cụ thể: Về phương tiện tham gia giao thông đường bộ chỉ quy định về điều kiện tham gia giao thông, về đăng ký xe, không quy định về quản lý chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của xe cơ giới; về tổ chức an toàn giao thông "động" tách bạch với tổ chức giao thông gắn với kết cấu hạ tầng; về công tác tuần tra, kiểm soát bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, không quy định về xử lý vi phạm hành chính.

IV. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO LUẬT

1. Bố cục

Dự thảo Luật gồm 08 chương, 72 điều, cụ thể như sau:

Chương I. Những quy định chung.

Gồm 06 điều, từ Điều 1 đến Điều 6, quy định về: Phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; nguyên tắc bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn giao thông; các hành vi bị nghiêm cấm.

Chương II. Quy tắc giao thông đường bộ.

Gồm 26 điều, từ Điều 7 đến Điều 32, quy định về: Quy tắc chung; hiệu lệnh của người điều khiển giao thông; chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển giao thông và hệ thống báo hiệu đường bộ; người đi bộ, người khuyết tật, người già yếu, trẻ em tham gia giao thông; người điều khiển, người ngồi trên xe đạp, xe đạp máy (kể cả xe đạp điện), người điều khiển xe thô sơ khác; người điều khiển, dẫn dắt súc vật, điều khiển xe súc vật kéo đi trên đường bộ; người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy; sử dụng làn đường; vượt xe và nhường đường cho xe xin vượt; chuyển hướng xe; lùi xe; tránh xe đi ngược chiều; dừng xe, đỗ xe; mở cửa xe; sử dụng đèn; sử dụng tín hiệu còi; nhường đường tại nơi đường giao nhau; qua phà, qua cầu phao; đi trên đoạn đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt, cầu đường bộ đi chung với đường sắt; giao thông trên đường cao tốc; giao thông trong hầm đường bộ; quyền ưu tiên và tín hiệu ưu tiên của một số loại xe; trường hợp chở người trên xe ô tô chở hàng; xe kéo xe và xe kéo rơ moóc; chấp hành quy định về tốc độ và khoảng cách khi điều khiển phương tiện; tổ chức hoạt động văn hóa, thể thao, diễu hành, lễ hội trên đường bộ.

Chương III. Phương tiện và người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ.

Gồm 12 điều, từ Điều 33 đến Điều 44, quy định về: Điều kiện phương tiện tham gia giao thông đường bộ; cấp, thu hồi đăng ký và biển số xe cơ giới; trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền về cấp, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký, biển số xe; trách nhiệm của chủ xe cơ giới; điều kiện của người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ; giấy phép lái xe; tuổi, sức khỏe của người lái xe; đào tạo lái xe; sát hạch lái xe; cấp, cấp lại, đổi, thu hồi giấy phép lái xe; điểm của giấy phép lái xe.

Chương IV. Tổ chức an toàn giao thông, chỉ huy, điều khiển giao thông và giải quyết ùn tắc giao thông đường bộ.

Gồm 06 điều, từ Điều 45 đến Điều 50, quy định về: Tổ chức an toàn giao thông; chỉ huy, điều khiển giao thông; bảo đảm an toàn giao thông các sự kiện trên đường bộ; bảo đảm an toàn giao thông phương tiện siêu trường, siêu trọng tham gia giao thông đường bộ; giải quyết những bất cập về tổ chức an toàn giao thông đường bộ đang khai thác, sử dụng; giải quyết ùn tắc giao thông.

Chương V. Giải quyết tai nạn giao thông đường bộ.

Gồm 07 điều, từ Điều 51 đến Điều 57, quy định về: Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân tại hiện trường nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông; trách nhiệm của cơ quan Y tế; trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp; trách nhiệm của cơ quan Công an; trách nhiệm của cơ quan Quân đội; trách nhiệm của cơ quan, đơn vị bảo trì, khai thác đường bộ và cơ quan, đơn vị đăng kiểm; trách nhiệm của cơ quan, doanh nghiệp bảo hiểm.

Chương VI. Thực thi pháp luật trong phát hiện, xử lý vi phạm.

Gồm 03 điều, từ Điều 58 đến Điều 60, quy định về: Tuần tra, kiểm soát bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ; hình thức phát hiện vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông đường bộ của Cảnh sát giao thông; xử lý vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Chương VII. Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Gồm 10 điều, từ Điều 61 đến Điều 70, quy định về: Nội dung quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ; trách nhiệm của Chính phủ; trách nhiệm của các Bộ: Công an, Giao thông vận tải, Quốc phòng, Giáo dục và Đào tạo, Y tế, Thông tin và Truyền thông, Khoa học và Công nghệ, Tài chính, Xây dựng, Công Thương, Lao động – Thương binh và xã hội; trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp; trung tâm chỉ huy, điều khiển, giám sát giao thông; cơ sở dữ liệu dùng chung trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; kinh phí cho công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; hợp tác quốc tế về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông.

Chương VIII. Điều khoản thi hành.

Gồm 2 điều, từ Điều 71 đến Điều 72, quy định về: Hiệu lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp.

2. Nội dung cơ bản của dự thảo Luật

a) Về những quy định chung

Giải thích các từ ngữ liên quan đến quy tắc giao thông đường bộ, trật tự, an toàn giao thông đường bộ, bổ sung một số khái niệm, định nghĩa mới (như người tham gia giao thông, ùn tắc giao thông, tai nạn giao thông, trung tâm chỉ huy giao thông, hệ thống giám sát, xử lý vi phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ …). Bổ sung nhiều hành vi bị nghiêm cấm là những hành vi nguy hiểm, có nguy cơ cao gây ra tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông hoặc gây mất an ninh, trật tự, như: Điều khiển phương tiện tham gia giao thông mà trong cơ thể có chất ma túy hoặc các chất kích thích khác mà pháp luật cấm sử dụng; điều khiển phương tiện mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn; dùng tay sử dụng điện thoại di động khi điều khiển phương tiện; ném gạch, đất, đá, cát hoặc vật thể khác vào phương tiện đang tham gia giao thông trên đường bộ; đặt, để chướng ngại vật trái phép trên đường, ném đinh, rải đinh hoặc vật sắc nhọn khác trên đường bộ…

b) Về quy tắc giao thông đường bộ

Trên cơ sở nội luật hóa quy định trong Công ước Viên năm 1968 về Giao thông đường bộ phù hợp với điều kiện Việt Nam, kế thừa những quy định còn hợp lý của Luật Giao thông đường bộ năm 2008, luật hóa một số quy định ở các văn bản dưới luật, bổ sung một số quy định mới phù hợp với tình hình thực tiễn và phù hợp với nhiều quốc gia trên thế giới. Trong đó, đã sửa đổi, bổ sung đầy đủ và rõ ràng hơn một số quy tắc giao thông, như: Người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ tham gia giao thông phải chú ý bảo đảm an toàn cho trẻ em, người già, người khuyết tật, người đi bộ và người điều khiển phương tiện giao thông thô sơ đường bộ; trẻ em dưới 12 tuổi hoặc dưới 1,35 mét được chở trên xe ô tô chở người không được ngồi ở hàng ghế trước (vị trí ghế cạnh người lái xe) khi tham gia giao thông đường bộ, trừ trường hợp đối với xe chỉ có một hàng ghế; đối với trẻ em dưới 4 tuổi phải được chở bằng ghế ngồi thiết kế dành cho trẻ em; người điều khiển phương tiện phải quan sát, giảm tốc độ hoặc dừng lại nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường; mở cửa xe... Mô tả, làm rõ hơn một số quy tắc như tránh, vượt, chuyển hướng, chuyển làn, sử dụng còi, đèn tín hiệu, giao thông trên đường cao tốc, trong hầm đường bộ...

c) Về phương tiện và người điều khiển phương tiện tham gia giao thông

- Phương tiện tham gia giao thông

Khoa học và thực tiễn xác định phương tiện tham gia giao thông là một trong 3 thành tố chính của hoạt động giao thông đường bộ có liên quan trực tiếp đến trật tự, an toàn giao thông. Với số lượng phương tiện và cơ cấu vận tải đường bộ chiếm tỷ trọng lớn, phương tiện khi tham gia giao thông phải được quản lý chặt chẽ để phòng ngừa tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông, gắn trách nhiệm của chủ phương tiện trong việc thực hiện nghĩa vụ pháp lý khi vi phạm hành chính có liên quan đến phương tiện. Theo Bộ luật Dân sự, phương tiện giao thông cơ giới đường bộ là nguồn nguy hiểm cao độ vì tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến tai nạn giao thông và thường được tội phạm lợi dụng tiến hành các hành vi phạm tội, như: Khủng bố, biểu tình, gây rối, giết người, vận chuyển ma túy, hàng cấm, hàng lậu, cướp giật, buôn bán người..., theo thống kê hầu hết các vụ vi phạm và tai nạn giao thông đường bộ đều liên quan đến người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới. Quản lý phương tiện là nội dung quan trọng để gắn trách nhiệm của chủ phương tiện, người điều khiển phương tiện khi phương tiện tham gia giao thông, phục vụ công tác nghiệp vụ giải quyết các tình huống, sự cố, phân luồng, phân tuyến, hướng dẫn điều hành giao thông. Thông qua công tác đăng ký, quản lý phương tiện có thể nhanh chóng xác minh truy nguyên đối tượng sử dụng phương tiện để phạm tội, hợp thức hóa, sử dụng xe gian, xe lậu...Trong khi đó, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 chưa quy định các nội dung mang tính nguyên tắc về công tác đăng ký, quản lý phương tiện, trách nhiệm của chủ phương tiện.

Trên cơ sở đó, dự thảo Luật quy định về các nội dung: Điều kiện tham gia giao thông đường bộ; cấp, thu hồi đăng ký và biển số xe cơ giới; trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền về cấp, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký, biển số xe; trách nhiệm của chủ xe cơ giới, phù hợp với Công ước Viên năm 1968 về Giao thông đường bộ và phù hợp thực tiễn Việt Nam. So với Luật Giao thông đường bộ năm 2008, đã bổ sung quy định chi tiết nhiều nội dung về công tác đăng ký, cấp biển số xe theo hướng chặt chẽ hơn, bảo đảm yêu cầu cải cách hành chính, phục vụ Nhân dân, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại.

 

- Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông

Cùng với phương tiện, người điều khiển phương tiện tham gia giao thông là một thành tố cơ bản nhất của hoạt động giao thông, là chủ thể mang tính quyết định đến sự an toàn, bởi liên quan chặt chẽ đến các yếu tố như khả năng nhận thức và năng lực hành vi, kỹ năng lái xe, kỹ năng phán đoán, xử lý tình huống, điều kiện sức khỏe, trạng thái tâm lý, quá trình chấp hành pháp luật về hình sự, hành chính… Khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông phải hiểu và chấp hành các quy định của pháp luật để lưu thông an toàn, bảo đảm tính mạng, sức khỏe cho mình và cho những người tham gia giao thông khác (theo thống kê, nguyên nhân do lỗi chủ quan của người tham gia giao thông chiếm gần 90% tổng số nguyên nhân các vụ tai nạn giao thông đường bộ, trong đó có nguyên nhân thiếu kỹ năng cơ bản phải được đào tạo để xử lý tình huống; có trên 50% các vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng liên quan đến xe kinh doanh vận tải, trong đó nhiều vụ tai nạn giao thông thảm khốc làm chết, bị thương nhiều người, nguyên nhân là do người lái xe ngủ gật, sử dụng chất ma túy, rượu, bia…). Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông cũng có thể là chủ thể liên quan trực tiếp đến các vụ việc gây mất an ninh, trật tự trên đường giao thông, sử dụng phương tiện vào các mục đích phạm tội. Vì vậy, việc quản lý người điều khiển phương tiện giao thông là quản lý hành vi của con người, phải thực hiện đồng bộ, thường xuyên, liên tục, từ khâu đào tạo, đến sát hạch, cấp giấy phép lái xe và quản lý quá trình chấp hành pháp luật của người lái xe sau khi cấp giấy phép lái xe, không đơn thuần như việc quản lý các loại giấy phép, chứng chỉ thông thường khác.

Trên cơ sở xác định quản lý người lái xe là quản lý hành vi của con người, nội luật hóa Công ước Viên năm 1968 về Giao thông đường bộ, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của nhiều quốc gia tiên tiến trong khu vực và trên thế giới có thể áp dụng phù hợp với điều kiện Việt Nam, dự thảo Luật quy định nhiều điểm mới trong công tác đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe theo hướng ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, quản lý lái xe bằng cơ sở dữ liệu có liên thông với các bộ, ngành liên quan như Giao thông vận tải, Y tế…; người đủ 17 tuổi trở lên được đăng ký học lái xe; người học lái xe được lựa chọn cơ sở đào tạo lái xe, giáo viên dạy lái theo yêu cầu, được đào tạo hoặc lựa chọn hình thức tự học các kiến thức về pháp luật giao thông đường bộ; người được cơ sở đào tạo xác nhận đã hoàn thành chương trình đào tạo, được lựa chọn và đăng ký với cơ quan quản lý đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe để tham dự kỳ sát hạch; kết quả đào tạo, sát hạch lái xe phải thông tin công khai; các cơ sở đào tạo lái xe, trung tâm sát hạch lái xe được thành lập theo quy định của pháp luật về đầu tư (trừ cơ sở, trung tâm phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh); sửa đổi một số hạng giấy phép lái xe so với Luật Giao thông đường bộ năm 2008 để phù hợp với Công ước Viên năm 1968, như: Quy định 01 hạng B để cấp cho người lái xe ô tô chở người đến 9 chỗ, xe ô tô tải, máy kéo có khối lượng hàng chuyên chở theo thiết kế không vượt quá 3.500kg; bỏ quy định hạng E, các hạng F, theo đó có 11 hạng giấy phép lái xe gồm: A01, A2, A3, B, C, D2, D, BE, CE, D2E, DE. Quy định về điểm của giấy phép lái xe, theo đó giấy phép lái xe có 12 điểm trong 12 tháng, giấy phép lái xe bị trừ hết điểm, sau thời hạn 06 tháng kể từ ngày bị trừ hết điểm người lái xe nếu có nhu cầu cấp giấy phép lái xe mới, phải sát hạch lại và nếu giấy phép lái xe còn điểm thì được phục hồi 12 điểm sau 12 tháng kế tiếp.

d) Về tổ chức an toàn giao thông, chỉ huy, điều khiển giao thông và giải quyết ùn tắc giao thông đường bộ

Quy định cụ thể các nội dung trong tổ chức an toàn giao thông, gồm: Chỉ huy, điều khiển giao thông; vận hành đèn, hệ thống đèn tín hiệu giao thông phù hợp với tình hình giao thông; phòng ngừa và giải quyết ùn tắc giao thông; tạm thời đình chỉ đi lại ở một số đoạn đường nhất định, phân lại luồng, phân lại tuyến và nơi tạm dừng, đỗ phương tiện giao thông đường bộ khi có tình huống ùn tắc, tai nạn giao thông đường bộ hoặc các tình huống đột xuất khác; quy định người, phương tiện đi lại khu vực cấm, đường cấm trong một khoảng thời gian nhất định; bảo đảm an toàn giao thông các sự kiện chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội trên đường bộ; phối hợp quản lý các phương tiện siêu trường, siêu trọng tham gia giao thông trên đường bộ; khảo sát, kiến nghị giải quyết các bất cập về tổ chức giao thông trên đường bộ đang khai thác, sử dụng;  tham gia tổ chức giao thông đối với các công trình giao thông trước khi đưa vào khai thác, sử dụng.

Quy định về bảo đảm an toàn giao thông các sự kiện trên đường bộ, gồm: Thông báo công khai phương án phân luồng giao thông để người tham gia giao thông biết, chấp hành; tổ chức thực hiện việc phân luồng, phân tuyến, cấm đường tạm thời, hạn chế đi lại trên một số tuyến đường nơi tổ chức các sự kiện; giải quyết các tình huống xảy ra trên đường bộ làm mất an toàn giao thông, ảnh hưởng đến an ninh, an toàn. Quy định về giải quyết những bất cập về tổ chức giao thông, gồm: Hạ tầng giao thông bị hư hỏng, có nguy cơ mất an toàn giao thông; công tác phân làn, phân luồng, phân tuyến chưa phù hợp; hệ thống báo hiệu đường bộ bất hợp lý; tuyến đường, đoạn tuyến thường xuyên xảy ra ùn tắc kéo dài; vị trí thường xảy ra các vụ tai nạn giao thông; những bất cập khác liên quan đến trật tự, an toàn giao thông. Quy định về chỉ huy, điều khiển giao thông; giải quyết ùn tắc giao thông.

Đây là các nội dung mới so với Luật Giao thông đường bộ năm 2008 để lực lượng chức năng có cơ sở pháp lý rõ ràng, đầy đủ khi tổ chức thực hiện.

đ) Về giải quyết tai nạn giao thông đường bộ

Công tác giải quyết tai nạn giao thông liên quan trực tiếp tới quyền, nghĩa vụ của người dân và liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan, đơn vị thuộc các bộ, ngành. Hiện nay, trong Luật Giao thông đường bộ năm 2008 tuy đã có quy định nhưng chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, tản mát ở vài điều luật, chủ yếu hướng dẫn tại các thông tư của các bộ, hiệu lực pháp lý chưa cao, do đó cần phải luật hóa và bổ sung các quy định mới để bảo đảm sự tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch, tạo hành lang pháp lý đầy đủ, hoàn thiện cho lực lượng chức năng thực thi nhiệm vụ, bảo đảm việc giải quyết tai nạn giao thông được kịp thời, khách quan, chính xác, đúng pháp luật, khắc phục hậu quả các vụ tai nạn giao thông, bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của các bên có liên quan trong vụ tai nạn giao thông.

e) Về thực thi pháp luật trong phát hiện, xử lý vi phạm

Quy định về tuần tra, kiểm soát bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, theo đó Cảnh sát giao thông chịu trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên các tuyến giao thông đường bộ để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ, vi phạm pháp luật khác của người và phương tiện tham gia giao thông theo quy định của pháp luật; phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm; đẩy mạnh việc sử dụng các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ, tiếp nhận thông tin, hình ảnh phản ánh vi phạm trật tự, an toàn giao thông do tổ chức, cá nhân cung cấp, sử dụng kết quả thu được từ các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ do tổ chức được giao quản lý, khai thác, bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ cung cấp làm căn cứ xác định và xử lý các hành vi vi phạm trật tự, an toàn giao thông. Đây là những nội dung mới so với Luật Giao thông đường bộ năm 2008 để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, phát hiện, xử lý vi phạm; cải cách phương thức tuần tra, kiểm tra theo hướng hiện đại hóa, nâng cao hiệu lực và tính nghiêm minh của pháp luật.

g) Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Quy định nội dung quản lý nhà nước về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ; phân công trách nhiệm quản lý nhà nước của các bộ, ngành, địa phương một cách rõ ràng, rành mạch, đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật về tổ chức bộ máy. Theo đó, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ; Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ; Bộ Giao thông vận tải và các bộ, ngành có liên quan, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan, trong đó đã phân công, phân cấp nhiều nhiệm vụ quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông cho Ủy ban nhân dân các cấp.

Quy định về trung tâm chỉ huy giao thông và cơ sở dữ liệu dùng chung trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, theo đó trung tâm chỉ huy giao thông có chức năng giám sát, chỉ huy điều hành giao thông và xử lý vi phạm giao thông; kết nối và xử lý dữ liệu camera từ các cơ quan, tổ chức khác để phục vụ công tác bảo đảm an toàn giao thông gắn với bảo đảm an ninh, trật tự. Cơ sở dữ liệu dùng chung trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ phục vụ công tác quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ, công tác bảo đảm an ninh, trật tự và các công tác quản lý nhà nước khác có liên quan.

V. VẤN ĐỀ CẦN XIN Ý KIẾN

Nghị quyết số 123/NQ-CP ngày 31/8/2020 của Chính phủ về phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 8 năm 2020, trong đó Chính phủ thống nhất nội dung cơ bản của Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ được xây dựng trên cơ sở đổi mới, hoàn thiện các chính sách, nội dung quy định về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ tách ra từ Luật Giao thông đường bộ hiện hành, nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và công tác tổ chức thực thi pháp luật, tạo bước chuyển biến cơ bản, bền vững trong việc bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra.

Về phạm vi điều chỉnh, Chính phủ thảo luận và thống nhất Dự án Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ quy định các vấn đề về: Quy tắc giao thông; đào tạo, sát hạch và cấp giấy phép lái xe; đăng ký và cấp, thu hồi biển số xe cơ giới; tổ chức an toàn giao thông, chỉ huy, điều khiển giao thông đường bộ; giải quyết ùn tắc, tai nạn giao thông; các biện pháp thực thi pháp luật trong phát hiện, xử lý vi phạm về trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Tuy nhiên, còn có ý kiến đề nghị quy định vấn đề đào tạo, sát hạch và cấp giấy phép lái xe theo 02 phương án: Phương án 1: Vấn đề đào tạo, sát hạch và cấp giấy phép lái xe thuộc phạm vi điều chỉnh của dự án Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ; Phương án 2: Dự thảo Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi) tiếp tục điều chỉnh vấn đề đào tạo, sát hạch và cấp giấy phép lái xe. Chính phủ giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông vận tải xây dựng nội dung thuyết minh phù hợp cho từng phương án.

1. Phương án 1:

- Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là một nội dung của bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội để bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe cho người tham gia giao thông, bảo vệ quyền con người; còn đầu tư, xây dựng, phát triển, quản lý kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, vận tải đường bộ thuộc lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật để bảo đảm các điều kiện về cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hoạt động giao thông, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

- Các thành tố chính để bảo đảm trật tự, an toàn giao thông (sự di chuyển, đi lại của người và phương tiện trên đường giao thông), gồm: (1) Người điều khiển phương tiện giao thông; (2) Phương tiện giao thông; (3) Người và phương tiện kết nối với hạ tầng giao thông (thông qua quy tắc giao thông).

Trong đó, người điều khiển phương tiện giao thông vừa là chủ thể cần bảo vệ, vừa là nhân tố chính gây mất an toàn giao thông. Do đó, để bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, phải quản lý được hành vi chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông một cách xuyên suốt và nhất quán, từ khâu đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe và sau khi được cấp giấy phép lái xe; mục tiêu lớn nhất của Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ là bảo vệ quyền con người, phòng ngừa, hạn chế tai nạn giao thông. Vì vậy, người tham gia giao thông phải có đủ kiến thức, kỹ năng điều khiển và ý thức chấp hành pháp luật là chính sách trọng tâm được điều chỉnh trong Luật.

Hành vi của người tham gia giao thông là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng cấu thành nội hàm khái niệm "bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ". Theo thống kê từ năm 2009 đến nay, tai nạn giao thông ở Việt Nam đã xảy ra trên 334 nghìn vụ, làm chết trên 101 nghìn người (trung bình hàng năm gần 10.000 người chết, chủ yếu trong độ tuổi lao động), làm bị thương trên 336 nghìn người, trong đó nhiều người bị thương tật suốt đời. Đáng chú ý nguyên nhân gây tai nạn giao thông đường bộ do lỗi vi phạm của người điều khiển phương tiện tham gia giao thông là chủ yếu chiếm trên 90% số vụ, trong đó nhiều lái xe có kỹ năng điều khiển, kiến thức về pháp luật an toàn giao thông và ý thức tự giác chấp hành luật còn rất kém. Bên cạnh đó, thông qua công tác tuần tra, kiểm soát, lực lượng Công an đã phát hiện và xử lý rất nhiều các trường hợp lái xe dương tính với chất ma túy, vi phạm nồng độ cồn, sử dụng giấy phép lái xe giả… đây là những nguyên nhân gây ra những vụ tai nạn giao thông thảm khốc trong thời gian qua, gây bức xúc dư luận xã hội và rất đáng báo động. Tình trạng coi thường pháp luật, chống người thi hành công vụ, gây tai nạn giao thông bỏ chạy, vận chuyển hàng cấm, hàng lậu, ma túy…diễn biến rất phức tạp.

- Điều khoản về quản lý hành vi của người tham gia giao thông liên quan đến các khâu như: Đào tạo, sát hạch và cấp giấy phép lái xe quy định trong dự thảo Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ được xây dựng trên cơ sở tham chiếu Công ước Viên về Giao thông đường bộ năm 1968 và tham khảo luật của nhiều nước trên thế giới (mô hình thành công nhất là Nhật Bản và Hàn Quốc).

- Trước khi ban hành Luật Giao thông đường bộ năm 2001, các quy định về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật riêng biệt, tách bạch với các văn bản pháp luật về xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, cụ thể là: Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn của Cảnh sát nhân dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1962; Nghị định số 348 ngày 03/12/1955 ban hành luật đi đường bộ; Quyết định liên bộ số 176 ngày 09/12/1989 ban hành điều lệ trật tự, an toàn giao thông vận tải đường bộ; Nghị định 36 ngày 29/5/1995 về bảo đảm an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị, trong đó có nhiệm vụ đào tạo, sát hạch và cấp giấy phép lái xe.

- Đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe và quản lý quá trình chấp hành pháp luật trật tự, an toàn giao thông đường bộ là các nội dung quan trọng nhất, xuyên suốt, quyết định kiến thức pháp luật, kỹ năng điều khiển và ý thức chấp hành pháp luật của người lái xe khi tham gia giao thông, quyết định đến trật tự, an toàn giao thông và thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Như vậy, việc quy định vấn đề đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe trong dự án Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ góp phần đổi mới, hoàn thiện các chính sách, nội dung quy định về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và công tác tổ chức thực thi pháp luật, tạo bước chuyển biến cơ bản, bền vững trong việc bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra, với mục tiêu cao nhất là bảo vệ quyền con người, phòng ngừa, hạn chế thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho người tham gia giao thông; lập lại trật tự, nề nếp, kỷ cương, xây dựng nền giao thông văn minh, tôn trọng pháp luật; quản lý được hành vi chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông một cách xuyên suốt và nhất quán, từ khâu đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe và sau khi được cấp giấy phép lái xe, giải quyết được những vấn đề thực tiễn đang đặt ra hiện nay đòi hỏi phải tăng cường công tác quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng người lái xe về kỹ năng điều khiển, kiến thức và ý thức chấp hành pháp luật an toàn giao thông, phòng ngừa, hạn chế các vụ tai nạn giao thông; phù hợp với Công ước Viên về Giao thông đường bộ năm 1968 và luật của nhiều nước trên thế giới. Đa số Thành viên Chính phủ đồng ý với Phương án 1.

Để đáp ứng yêu cầu đổi mới, cải cách hành chính và thực tiễn về trật tự, an toàn giao thông đường bộ hiện nay, Bộ Công an, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tư pháp đã thống nhất để Bộ Công an báo cáo Quốc hội theo Phương án 1: Vấn đề đào tạo, sát hạch và cấp giấy phép lái xe thuộc phạm vi điều chỉnh của dự án Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, để bảo đảm tính hợp lý, đồng bộ và thống nhất, phù hợp với chuẩn mực quốc tế, bảo vệ tính mạng, tài sản, bảo vệ quyền con người.

2. Phương án 2 (Do có ý kiến khác nên Chính phủ đưa ra Phương án 2 để Quốc hội tham khảo)

Từ năm 2001 đến nay, công tác đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe đã được quy định trong Luật Giao thông đường bộ và được thực hiện ổn định; công tác này đã được xã hội hóa mạnh mẽ.

Hiện nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về hoạt động này đã được cơ quan có thẩm quyền ban hành đầy đủ, đồng bộ; chương trình đào tạo, quy trình sát hạch được xây dựng trên cơ sở phù hợp với kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, quy tắc giao thông, yêu cầu về điều kiện của phương tiện tham gia giao thông, hoạt động vận tải đường bộ và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia…

Phương án này không phù hợp với cấu trúc, mục tiêu và nội dung của Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi) là thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kết cấu hạ tầng hiện đại, hiệu quả, nâng cao chất lượng hệ thống mạng lưới đường bộ, phát triển vận tải đường bộ phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới.


Thông tin tuyên truyền Thông tin tuyên truyền

26 04
TẬP HUẤN CÔNG TÁC PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY...

Gần đây, một số địa...

Thống Kê Truy Cập Thống Kê Truy Cập

Tổng số lượt truy cập: 13991808
Số người đang truy cập: 48
Hôm nay: 1233
Hôm qua: 29290
Tuần này: 140905
Tuần trước: 218465
Tháng này: 790511
Tháng trước: 565030

Tố giác tội phạm

 

Email công vụ

Góp ý xây dựng phát triển Công an Tỉnh

 

Văn bản chỉ đạo điều hành

Kiến nghị, Phản ánh các vấn đề khác